Chủ nhật 01/03/15 19:40 PM

sinh con có trách nhiệm

Sách Sáng thế kể: Hai chị em Lêa và Rakhen cùng lấy một chồng là Giacop. Khi thấy chị Lêa sinh được bốn đứa con, còn mình thì mãi không sinh nở, Rakhen đã phát ghen và nói với Giacop: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi chết mất” (St 30,1). Một đứa con sinh ra trong sự mong đợi quả là niềm hạnh phúc lớn lao cho đôi vợ chồng. Tuy nhiên bên cạnh niềm vui cũng có nhiều nỗi lo. Chẳng hạn đối với hai vợ chồng : phải làm sao có đủ khả năng để chăm sóc cho con cái. Đối với xã hội, dân số gia tăng có nghĩa là phải làm sao có thêm lương thực, thêm trường học, thêm bệnh viện, thêm việc làm... Chính vì thế, càng ngày người ta càng ý thức hơn vấn đề sinh con có trách nhiệm. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà các anh chị đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân cũng như các đôi vợ chồng cần quan tâm suy nghĩ.

“Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, vì tình yêu vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả và thành tựu của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải một cái gì từ bên ngoài được ghép vào. Vì thế Hội Thánh “bảo vệ sự sống[1][1]“ và dạy rằng “mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh[2][2]“. “Giáo lý này đã được Huấn Quyền trình bày nhiều lần, nền tảng của giáo lý này là sự liên kết bất khả phân ly giữa hai ý nghĩa của hành vi ân ái: kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được tách rời[3][3]“.

Nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái là sứ mạng riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ ấy, họ biết rằng mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm của một con người và của một Kitô hữu[4][4].

Hội Thánh cũng nhấn mạnh rằng chính lương tâm trong sáng của đôi bạn là mực thước chỉ dạy họ quyết định về số con của mình[5][5]. Nhờ vâng phục Thiên Chúa và đồng tâm hiệp lực với nhau, hai vợ chồng sẽ tạo được cho mình một phán đoán ngay thẳng:

- biết xét đến lợi ích riêng của mình cũng như của con cái đã sinh ra hoặc sẽ sinh ra,

- biết nhận định về các hoàn cảnh vật chất và tinh thần,

- biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, xã hội và Hội Thánh.

Sự phán đoán ấy, chính đôi vợ chồng phải suy nghĩ trước mặt Thiên Chúa.

Khi hành động, các vợ chồng Kitô hữu luôn ý thức mình không thể làm theo sở thích, nhưng phải tuân theo tiếng nói của một lương tâm được khuôn đúc theo luật Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.

Sinh sản có trách nhiệm là suy nghĩ kỹ lưỡng và phán đoán chín chắn trước khi quyết định sinh con. Đôi vợ chồng cần suy nghĩ và phán đoán dựa vào các tiêu chuẩn thực tế sau đây:

Mỗi đứa con chào đời phải củng cố thêm tình yêu và hạnh phúc của vợ chồng, vì đứa con là kết quả của tình yêu tự hiến của họ. Trước khi quyết định sinh con, vợ chồng phải lưu ý đến những yếu tố giúp mang lại hoặc ảnh hưởng đến hạnh phúc của họ, chẳng hạn sức khỏe của người mẹ, tâm lý, ước vọng tương lai...

Con cái là ân huệ tốt đẹp nhất của hôn nhân. Sinh một đứa con là tự ý chấp nhận tạo mọi điều kiện để nó có thể sống hạnh phúc, sống xứng đáng với ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa. Do đó, đôi bạn cần lưu ý đến khả năng tài chính, nơi ăn chốn ở, những phương cách giáo dục... và tính toán xem nếu sinh thêm một đứa con, liệu mình có thể nuôi dưỡng và giáo dục nó được chu đáo không.

Xã hội phát triển là nhờ những phần tử khoẻ mạnh, siêng năng làm việc và có những đức tính cần thiết. Cũng vậy, Hội Thánh chỉ thực sự phát triển khi con cái của mình không những kiên vững về đức tin mà còn trưởng thành về nhân bản nữa. Do đó, sự lượng định về khả năng nuôi dạy và giáo dục con cái trở thành những phần tử hữu ích cho xã hội và Hội Thánh cũng là một tiêu chuẩn mà đôi bạn cần lưu ý khi quyết định về việc điều hòa sinh sản.

Do tình trạng tài nguyên trên thế giới phân phối không đều, ngày nay những nước nghèo không đủ sống, trong khi những nước giàu quá thừa thãi. Cũng vì thế, đang khi nhiều nước giàu khuyến khích các gia đình có thêm con cái, thì các nước nghèo bị áp lực phải tìm cách hạn chế dân số. Nhiều gia đình tự thấy chỉ nên sinh con trong khả năng mình có thể nuôi dạy chúng nên người.

Trong việc kế hoạch hóa gia đình, người Công giáo không được phép sử dụng cách ngừa thai nhân tạo mà chỉ được sử dụng cách ngừa thai tự nhiên, khi có lý do chính đáng theo những tiêu chuẩn của Hội Thánh.

“Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều hòa truyền sinh. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa các lần sinh nở. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý:

“Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng”[6][6].

Ngừa thai nhân tạo là trực tiếp làm cho khả năng sinh sản vô hiệu hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể đạt kết quả.

Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm những phương pháp: thắt ống dẫn tinh, bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, thuốc diệt tinh trùng...

Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm những phương pháp : thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn...

Hội Thánh cấm dùng các phương pháp ngừa thai này, vì chúng chẳng những ngăn cản vợ chồng cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống mà còn làm sai lạc sự thật căn bản của tình yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau.

“Cấm việc hút điều hoà kinh nguyệt, vì là hình thức phá thai non. Cấm những hành động trực tiếp ngăn cản việc thụ thai tạm thời hay vĩnh viễn. Cấm sử dụng các dụng cụ, các loại thuốc ngừa thai[7][7]“.

Ngừa thai tự nhiên là tiết dục định kỳ, vợ chồng kiêng giao hợp trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai.

Nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể sử dụng cách thức ngừa thai tự nhiên này, vì nó không đối nghịch với bản chất và mục đích của hành vi yêu thương thân mật ; không trực tiếp ngăn cản việc trứng thụ tinh hay giết chết bào thai[8][8].

Sau đây là hai phương pháp giúp xác định ngày trứng rụng, cũng như xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ thai và những ngày nào không thể thụ thai.

- Phương pháp Ogino-Knauss

Phương pháp này do hai bác sĩ Ogino người Nhật và Knauss người Áo cùng tìm ra vào các năm 1925-1930. Nó dựa trên chu kỳ kinh nguyệt để xác định ngày rụng trứng. Trứng thường rụng vào ngày thứ 14 trước khi có kinh lần sau. Thỉnh thoảng trứng cũng có thể rụng vào ngày thứ 12 hoặc ngày thứ 16.

Phương pháp này còn dựa vào thời gian hoạt động của trứng và tinh trùng. Sau khi vào âm đạo, tinh trùng có thể sống khoảng 72 giờ. Còn trứng, sau khi rụng, có thể sống khoảng 24 giờ.

Căn cứ vào những yếu tố trên, người ta có thể xác định được trong một chu kỳ kinh nguyệt khoảng thời gian nào là có thể thụ thai và khoảng thời gian nào là không thể thụ thai. Nếu chưa muốn có thai thì kiêng giao hợp trong khoảng thời gian có thể thụ thai.

- Phương pháp quan sát chất nhờn

Phương pháp này do cặp vợ chồng người Úc John và Evelyn Billings tìm ra, nên còn gọi là phương pháp Billings.

Nơi người phụ nữ, việc tiết chất nhờn ở cổ tử cung và âm đạo thường theo một quy trình nhất định. Sau những ngày kinh nguyệt, âm đạo thường khô ráo. Trước khi trứng rụng vài ngày, chất nhờn bắt đầu tiết ra, lúc đầu ít, đục, dẻo; sau đó nhiều, trong, trơn ướt, nhớt, có thể kéo sợi được, giống như lòng trắng trứng gà. Đây chính là ngày trứng rụng. Sau đó chất nhờn trở lại đục, dẻo và ít trong vài ngày, trước khi người phụ nữ lại cảm thấy khô ráo ở âm đạo cho đến kỳ kinh lần sau.

Nếu chưa muốn có thai, vợ chồng cần kiêng giao hợp trong những ngày có chất nhờn ở âm đạo, nhất là trong ngày chất nhờn có nhiều.

Trong thực tế, để tăng cường hiệu quả, người ta thường phối hợp cả hai phương pháp. Thật ra, không có phương pháp nào mà không có bất tiện và không đòi hy sinh, cố gắng. Ai tin vào Đức Kitô đều được mời gọi sống khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Vả lại, mọi người đều phải ý thức rằng sự sống con người và trách nhiệm lưu truyền sự sống không chỉ giới hạn ở đời này, cũng như không thể hiểu và đo lường được trọn vẹn ý nghĩa ngay từ bây giờ, nhưng luôn quy chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người.

Những phương pháp trên đây vẫn chưa phải là đơn giản. Chúng ta cần hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha để cầu xin Chúa cho các nhà khoa học có thể tìm ra những phương thức giản tiện hơn nữa, nhờ đó các đôi bạn có thể được dễ dàng hơn.

Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai. Ngay khi bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội[9][9].

Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác. Giáo huấn ấy bất biến, không hề thay đổi. Trực tiếp phá thai dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật luân lý[10][10].

Cộng tác vào chính việc phá thai là một lỗi nặng. Theo giáo luật, Hội Thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này[11][11]. Làm như thế Hội Thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác đã phạm, sự thiệt hại không thể sửa chữa được đã gây ra cho đứa trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn xã hội[12][12].

Thánh Kinh luôn coi những gia đình đông con là một dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa (x. Tv 128,3-4)

Thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con. “Ông Abraham thưa: Lạy Đức Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái” (St 15,2). Rakhen nói với chồng: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi chết mất” (St 30,1).

Quả thực, những đôi bạn ở trong hoàn cảnh vô sinh mới thấm thía sâu xa rằng “Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ[13][13].” Bởi vậy, thật hạnh phúc khi có thể nhờ những tiến bộ khoa học để chữa trị chứng vô sinh.

Tuy nhiên, những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người thứ ba (cho tinh dịch hoặc trứng, cho mượn tử cung) là những hành vi phải bị loại bỏ. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo khác nguồn) vi phạm quyền của đứa trẻ phải được sinh ra do cha mẹ đã chính thức kết hôn và quyền được biết cha mẹ là ai. Những kỹ thuật này vi phạm “độc quyền làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng”[14][14].

Về mặt luân lý, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con người hiến thân cho nhau, nhưng “sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái[15][15]“. Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản tính con người[16][16].

Đôi vợ chồng nào, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, được mời gọi liên kết với Thập Giá của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi, hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân[17][17].

* * *

Trong tâm tình biết ơn tình mẹ của Hội Thánh, chúng ta cùng nhau nghe lại lời Đức Thánh Cha Phaolô VI trong số 25 của thông điệp Sự Sống Con Người: “Giờ đây cha xin ngỏ lời riêng với các con cái nam nữ của cha mà đa số được Thiên Chúa mời gọi phụng sự Ngài trong bậc hôn nhân. Đang khi nêu rõ cho các con những điều không thể vi phạm mà luật Chúa đã quy định, Hội Thánh cũng loan báo ơn cứu độ cho các con, và qua các bí tích, Hội Thánh vẫn luôn mở rộng cho các con nguồn ơn thánh, giúp các con trở thành những thụ tạo mới, vừa biết lấy tình mến và tự do mà đáp lại ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá và là Đấng Cứu Độ, vừa nghiệm ra rằng ách của Đức Kitô luôn êm ái dịu dàng (Mt 11,30).

Ước gì trong trách nhiệm vợ chồng Kitô hữu, các con biết khiêm nhường vâng phục Hội Thánh và ý thức rõ rằng các con đang được gọi sống đời Kitô hữu, một ơn gọi đã bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và nay được củng cố và làm sáng tỏ hơn trong bí tích Hôn phối. Nhờ bí tích này, các con được thêm sức mạnh và được thánh hiến để trung thành chu toàn các bổn phận bậc mình. Vì thế ước gì các con ý thức trọn vẹn ơn gọi của các con và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt thế gian. Thật vậy, Chúa đã giao cho các con trách nhiệm làm cho mọi người thấy được sự thánh thiện và niềm vui của luật Chúa, luật dạy chúng con vừa yêu thương nhau vừa biết cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa là tác giả của sự sống con người.

Cha không hề muốn làm ngơ trước những khó khăn rất lớn đang vây phủ đời sống các đôi bạn Kitô hữu. Thế nhưng chúng ta quá biết rằng chỉ có cửa hẹp và đường chật mới dẫn đến sự sống (Mt 7,14). Chính niềm hy vọng hướng tới sự sống ấy sẽ như đuốc rực rỡ chiếu sáng bước đường chúng con đi, để chúng con có được một tinh thần quả cảm, luôn cố gắng “sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này” (Tt 2,12), vì biết chắc rằng “bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1Cr 7,31).

GHI NHỚ :

- Một là phải biết làm chủ bản năng tính dục.

- Hai là phải biết tôn trọng lẫn nhau.

- Ba là phải biết rõ hoàn cảnh cụ thể của mình để cùng nhau quyết định sinh con hay tạm ngừng.

- Bốn là phải dùng cách thức tự nhiên.

- Năm là phải biết tin tưởng vào Chúa để sẵn sàng đón nhận những đứa con ngoài ý muốn.

Kiêng cữ trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai. Khi có lý do chính đáng, vợ chồng được quyền sử dụng cách thức này.

 

- Một là dựa vào chu kỳ kinh nguyệt, được gọi là phương pháp Ogino.

- Hai là dựa vào hiện tượng chất nhờn, được gọi là phương pháp Billings.

GỢI Ý SUY NGHĨ :

CẦU NGUYỆN :

Lạy Mẹ Maria, bình minh của thế giới mới, Mẹ của mỗi người chúng con,

chúng con giao phó cho Mẹ vấn đề sự sống.

Ôi lạy Mẹ, xin hãy nhìn xem hằng hà sa số trẻ em mà người ta không cho ra đời,

những người nghèo với cuộc sống gian khổ,

những người già và những bệnh nhân bị giết,

do sự vô tâm hoặc do một thứ thương hại dối trá.

Xin làm cho những ai tin vào Con của Mẹ

biết loan báo cho những người thời đại này Tin mừng sự sống với sự xác quyết và lòng yêu thương.

Xin cho họ được ơn đón nhận Tin mừng sự sống như một hồng ân luôn mới mẻ,

cho họ niềm vui cử hành hồng ân ấy với lòng biết ơn trong suốt cuộc đời họ,

và lòng can đảm làm chứng cho Tin mừng sự sống cách bền bỉ và tích cực,

để cùng với tất cả mọi người thiện chí,

xây dựng nền văn minh chân lý và tình yêu,

hầu chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa,

Đấng Tạo Hóa hằng yêu thương sự sống. Amen

UỶ BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN

[1][1] x. GĐ 30

[2][2] SSCN 11

[3][3] GLHT 2366; x. SSCN 12; ĐGH Piô XI, thông điệp“Casti connubii”

[4][4] MV 50,2; GLHT 2367

[5][5] SSCN 10

[6][6] x. MV 51,3

[7][7] x. SSCN 14

[8][8] x. GLHT 2368 và 2370

[9][9] GLHT 2270

[10][10] GLHT 2271

[11][11] x. GL 1398

[12][12] GLHT 2272

[13][13] x. MV 50

[14][14] GLHT 2376

[15][15] x. Huấn thị Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,5

[16][16] x. Huấn thị Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,4

[17][17] x. Huấn thị Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,1; GLHT 2375-2379

Trở lại Đầu trang

Góc thảo luận khác